Tieudietvietcong's Blog

Freedom, Democracy, Human Rights, No Communism For Vietnam

CÁN BỘ PHẬT GIÁO C.S LÊ TẤN KIẾT: TỪ" ĐIỂM NHÃN" CHUYỂN SANG "ĐIỂM TRÔN"

CÁN BỘ PHẬT GIÁO C.S LÊ TẤN KIẾT: TỪ” ĐIỂM NHÃN” CHUYỂN SANG “ĐIỂM TRÔN”. – TRƯƠNG MINH HÒA

Đôi mắt được các văn, thi sỡi coi đó là nơi xuất phát ra phần lớn các nổi niềm, kể cả” THÔNG CỔM” với nhau như một số người dân ở xứ mà trước năm 1975 cho là:

” Quê hương em nghèo lắm ai ơi!.
Mùa đông thiếu thuốc, hè thời thiếu bia.
Trời hành cơn lụt hàng năm…”

Ngoài ra còn cảnh” giặc từ miền bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào” gây bao chết chóc hàng ngày, thế mà có ai nghĩ đến chuyện đóng tàu, bất chấp mọi hiểm nguy, bỏ” quê hương” để đi tìm tự do, sau khi” đất nước hoàn toàn đập lột và bị cưỡng bách thống nhất, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc xuống xã hội chủ nghĩa, cầu ỉa cũng rào”

Nên đôi mắt, có thể gọi là” cửa sổ tâm hồn” mà hổng sợ nói trật, trên phương diện nhân văn, các nhà tâm lý học có thể đọc được suy tư qua ánh mắt, những người nhạy cảm khi nhìn ánh mắt của người khác cũng có thể thăm dò phần nào cảm nghĩ mà từ đó mò mẫm để tiến đến sự hiểu biết lẫn nhau sau nầy. Khác với người Cộng Sản, ánh mắt chỉ là cái cớ dùng để chụp mũ, đấu tố đối tượng đang cần thanh toán mà thôi, nên trong các cuộc đấu tố, họp tổ, tập thể….những cán bộ Cộng Sản chỉ cần nhìn” ánh mắt” mà qui chụp ngay là” thành phần phản động” mà không cần phải điều tra dài dòng, là nguyên tắc trước sau như một:” thà giết lầm hơn tha lầm”; trong khi đó, họ chỉ nhìn nhau” tình đồng chí, đồng rận, đồng rệp” qua lá cờ mà đỏ như máu tươi, giống như cướp biển nhận dạng với nhau qua lá cờ màu đen có đầu lâu và hai khúc xương tréo màu trắng. Trong tình yêu, hai người phải lòng nhau thường có bước đầu thông cảm qua ánh mắt, nói đúng hơn là ánh mắt là” nhịp cầu giao duyên” đầu tiên đưa đến những chuyện tình sau nầy, nên người ra có câu tếu:” hai mắt nhìn nhau, trào máu họng”. Một số thi sỡi như Quang Dũng có bài thơ lừng danh:” đôi mắt người Sơn Tây”, nhưng sau nầy bị những thằng dốt trong đảng Cộng Sản, là kẻ tử thù của chữ nghĩa, văn hóa, chụp mũ là tiểu tư sản; Quang Dũng bị trù dập đến mãn đời, luôn bị rình rập, phải chịu dưới sự chỉ huy của những” hung thần văn hóa” như Tố Hữu, hay Bùi Huy Phồn… được một nhà văn đặt hai câu thơ thật xứng với nghề làm văn nô cho đảng cướp:

” Khi vui đọc chuyện Bùi Phồn.
Khi buồn thì dỡ cái L….ra coi”.

Trong thời kỳ giặc Cộng xâm lăng miền Nam, xé nát hai hiệp định Geneve và Paris, dù chính họ đặt bút ký và cam kết, những chàng trai hào hùng trong quân lực VNCH, chấp nhận hy sinh để bảo quốc an dân trong” những ánh mắt hỏa châu” để đêm đêm ngăn bước thù…. Do ánh mắt quan trọng trong đời sống con người, bị mù là coi như mất hết tất cả, chứ đừng nói đến mất chỉ có:” Nữa hồn thương đau” hay là chết hết phân nữa cuộc đời của Khánh Ly, kể từ khi thiếu tá quân hại nhân dân Trịnh Công Sơn đã” tiêu diêu nơi thiên đàng Cộng Sản” mà” cực kỳ thương tiếc”, tổ chức đêm văn nghệ tưởng nhớ” Đóa Hoa Vô Thần” tại Hoa Kỳ, ném cờ vàng ba sọc đỏ vào thùng rác để phần nào tưởng nhớ đến” người từng nối CÒNG tay lớn ngày 30 tháng 4 năm 1975″. Người mù không thể thấy được, nói như vậy là” dư một khúc dài cả cây số” nhưng đó cũng là” duy vật” biện chứng pháp, là thứ bá láp trong chủ nghĩa Marx Lenin đấy, vì ai có mù mà thấy được bao giờ?.

Tuy nhiên câu chuyện anh chàng nhạc sĩ tài ba Độc Huyền Cầm là Văn Vĩ, người đem tiếng đàn réo rắc chỉ một dây, từng khiến có nhiều người mê vọng cổ cũng dám” Lột quần cầm” để mua vé xem cải lương lắm! Nghe đồn là bị mù bẩm sinh, suốt đời mò mẫm những cung đàn ai oán trên cây đàn mà người bình dân gọi là” cái máng heo”, nhưng lạ thay, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Văn Vĩ tự nhiên sáng mắt, lái xe Honda chạy vù vù như người chưa bao giờ mù cả, nghe đồn, cũng là” tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển” rằng: có một người ái mộ Văn Vĩ, thuộc thành phần nông dân dốt, lỡ nghe lời đi theo Việt Cộng làm Du kích, sau 1975, bị đá văng ra khỏi bộ máy tham nhũng, bị một” đồng chí thân thương” từ miền Bắc vào cướp luôn vợ nhỏ của chàng DU KÍCH, bắt phải DÍT CU để được cách mạng chiếu cố trong công tác” hộ lý” và đồng thời cho người chồng ngây thơ, ngố ngáo được hưởng” chế độ” phục viên, chàng nông dân dốt mê vọng cổ muốn chứng minh môn thần dược, có khả năng chửa bịnh mù, nên một hôm bèn lén mò vào hang Pác Pó, ăn cắp lá cờ đỏ sao vàng mà Hồ Chí Minh từng làm để phát động cuộc chiến” đánh Tây giành đập lột” và mút nước suối Lenin về; đốt lá cờ lấy tro, pha với nước suối Lenin, nhỏ vào là người mù thành sáng. Văn Dĩ sáng mắt ra, còn hơn những người có mắt mà như đui, trở thành Việt Cộng ba mươi, đón gió trở cờ, và ngày nay tại hải ngoại cũng có nhiều người” có mắt mà như không tròng”, cam tâm mò mẫm về làm ăn, đem tài sức giúp đảng cướp thêm giàu mạnh, xạo ke ca tụng Việt Cộng là ” có cải thiện tình hình nhân quyền”, hùa theo làm tay sai cho Việt Cộng như băng đảng Việt Tân….người ít học bị mù lọt vào bẩy Việt Cộng, không phải là” chuyện LỌA” nhưng khoa bảng, có bằng cấp cao như tiến sĩ Vũ Quốc Thúi, cụ đại sứ Bùi Dỏm, Cẩu Cao Cầy…..cũng bị uống phải nước CAM-LỒ do các CÔ LÀM ra, được xuất khẩu từ ” nước háng” do hang Pác Pó mà bị mù, nên mới ca và hợp tác với đảng siêu cướp.Trái lại, những người mù mà vẫn thấy rõ hơn người sáng mắt, thấy hết mọi chuyện như cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu:

” Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm.
Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà”

Người mù kẻ sáng….người sáng, kẻ mù lẫn lộn như” đêm giữa ban ngày” nên chánh văn phòng thủ tướng Phạm Văn Đồng là Việt Phương mới nhìn trăng dưới ánh mắt” người mù thế kỷ” rằng:

” Trăng Liên Sô tròn hơn trăng nước Mỹ.

Đồng Hồ Trung Quốc tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ”.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thủ tướng hay dân” tưởng thú” Phạm Văn Đồng lại mù khi cho là:” một ký thịt bò bổ dưỡng bằng một ký rau muống”. Rồi những thằng mù Việt Cộng cứ mò voi rằng:” bọn phản động chạy theo đế quốc Mỹ, ăn bơ thừa sửa cặn”, sau nầy chính những thằng mù sờ voi nầy hé được chút” áng mây mù thế kỷ” nên tên nào cũng nhào” QUI MÔ để đớp” bơ cặn sửa thừa của thằng Mỹ” mà khen thơm, đớp nhanh, đớm mạnh, đớp hoài…như chưa bao giờ được đớp. Có một số người bị mù lâu năm như đại tá quân hại nhân dân” BUỒI TÍN”, nhà văng Dương Thu Hương….dù ở nơi có nhiều ánh sáng tự do, nhưng mắt học luôn bị mù, nên không nhìn thấy tên Việt gian Hồ Chí Minh là phản dân hại nước, dâm tặc…cứ mù mắt mà ca tụng” Như có bác Hồ vĩ đại.”. Dưới chế độ Cộng Sản, nhưng chỉ có lần” cháu ngu bác Hồ” là Dương Thu Hương chợt sáng mắt chút chút, nhìn ra” thiên đường mù” và Hà Sĩ Phu cũng giựt mình khi biết mình và cả nước đang” dắt tay nhau đi theo tấm bản chỉ đường của đảng mù luôn”, như người mù dắt người đui, cùng đồng hành trong đường hầm đen thui, thật là xui cho đất nước Việt Nam:

” Một người mù xem Ti Vi.
Một người câm đang tập hát.
Người không giò đang đi bộ.
Và người cùi cắt móng tay”.

Người sáng, kẻ mù là thường, nhưng tượng vô tri vô giác cũng phải có mắt, dù không bao giờ thấy đường, đúng là:” thà như giọt mưa rớt trên tượng đá… có còn hơn không..” tức là: có chồng hơn ở góa, ăn cá ít bịnh tim mạch hơn ăn thịt, làm chủ tịch nhỏ hơn bí thư, làm sư giàu mau hơn làm lao động…. Thời sau 30 tháng 4 năm 1975, nếu cây cột đèn biết đi, cũng phải ra biển đông tìm tự do, và nếu tượng đá, đồng, xi măng, thạch cao…mà có mắt, nhìn thấy được thì chắc là phải hét to nếu có miệng, khi nhìn thấy thế gian bao cảnh đảo điên, lọc lừa, gian trá….ngay cả trong chùa, nhà thờ….khắp nơi nơi đều là” gian, dâm, tham, ác tặc” đội lớp tu sĩ. Một sự kiện xảy ra từ Việt Nam trước đây, trở thành tập quán ở các tự viện, một số tăng sĩ tu lâu năm, tự động” đặc cách tại chùa”, bò từ tỳ kheo, sa di lên đại đức, thượng tọa, huề thượng…là” lãnh đạo tinh thần muôn năm” không có nhiệm kỳ, bầu bì gì cả cho tốn kém và mất đi nét linh ứng” tự biên tự diễn”. Dù có nhiều vị” thanh tâm trường DÂM TẶC” hay đa số” thanh tâm trường Tham tặc” tác phong, đạo đức còn thua cả những phật Tử chấp tay vái chào khi gặp sư, đó mới là” đổi đời” từ lâu mà không ai chú ý:

” Cạo đầu, dốt nát làm sư.
Phật tử có mắt, như mù thế kia”.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì cái cảnh rõ ràng:

” Năm đồng đổi lấy năm xu.
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy”.

Những người” trốn lính” cầu an tiêu cực, có khi là” núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ” là thành phần:” nhất đĩ nhì sư, tam cha, tứ tướng” cũng sáng mắt, bỏ nước ra đi nương theo làn sóng tỵ nạn, để tìm đến” thế giới Tây Phương Cực Lạc” không phải để thỉnh kinh tự do, sám dân chủ, hay ăn năn những việc làm:” Núp bóng từ bi đâm sau lưng chiến sĩ” trong suốt thời gian tu học, khi” đất nước lâm nguy, sư thì trốn tránh” mà là” tìm nơi bơ thừa sửa cặn để tu cho sướng cuộc đời TRẦN GIAN” mà làm nhiều việc TRÀN DÂNG tội lổi khác như: biến cửa chùa thành tiệm Phật, rước công an trá hình là sư sang để khuynh đảo Phật Giáo hải ngoại, tiếp tay cất chùa rửa tiền cho đảng, thu tiền dưới danh nghĩa cúng dường làm của riêng, khỏi đóng thuế, lại còn thêm dâm tặc…. Trong hành trang kinh kệ” trích từ tàng kinh các” nhiều sư không quên mang theo” nghề điểm nhãn”, vừa nhẹ nhàng, vừa làm tăng phần linh thiêng và con người sư thành” THOÁT TỤC” nhưng ai biết là ở trong phòng ngũ thì nắng cực mà THỤC TOÁT cả hang Pác Pó mà không ai hay biết, đến khi đổ bể thì coi như các ngài đã tế độ một số CHÚNG SANH thành CHÚNG ĐẺ. Đó là nghề” làm tiền nhanh, tiền mạnh, tiền sướng, tiền khôn..” được nhiều Phật tử có tấm lòng” tin dị đoan” hơn là lời Phật, hay lái lời Phật thành dị đoan để: cầu tài, cầu tự, cầu quan, cầu chức, cầu cho kiếp sau được giàu sang, vinh hiển, nếu có đầu thai thì cũng chui vào gia đình Hoàng Tộc Anh, Đan Mạch, Thái Lan….chớ đừng cho làm con hài nhi gái ở Trung Cộng, là mắc công phải đầu thai lần nữa sau khi được biến thành” thuốc cường dương” cho giới đảng viên Cộng sản….

Chính những” đầu óc cầu tiêu” chớ nào phải” cầu đạo” nầy, đã tạo cơ hội tốt cho những kẻ THAY MƯỢN thiền môn làm THƯƠNG MẠI để làm giàu nhanh, mạnh, bền….hợp cùng tiền cúng dường, làm công quả, dịch vụ đọc kinh đám ma với giá cắt cổ người còn sống, đầu tư tro người chết trong chùa để thân nhân đóng tiền hàng năm… để đưa các sư ni lên thành” triệu Phú Phật Giáo”, làm ăn khắm khá” một cái chùa bằng ba cái shop” thật là công đức CAO ĐẦY làm cho nhiều Phật tử có tâm Tam Tạng phải CÀY ĐAU lưng hai ba job mỗi ngày, mà các thầy vẫn chưa thỏa mãn túi tiền không đáy.

” Cúng, cúng dường nữa, cho thùng Phước Sương thêm đầy ấp.
Cho ni sư càng mau chóng làm giàu.
Cho cảnh chùa tấp nập khách ra vô.
Thành Triệu phú mà không hề làm việc”.

Trong nghệ thuật, những họa sĩ tài ba, có khả năng chấm phá pho tượng, hình trong tranh mang” truyền thần” y như người đang nhìn mình, đó là nét độc đáo của nghệ thuật tạo hình. Nhưng rủi thay, cái nghề hay ho nầy đã bị giới thầy cúng, thầy tụng, thầy xôi, thầy thịt, thầy tiền, thầy hù….thuộc thành phần THÍCH THẦY CHẠY tiếm danh” nghệ sĩ” hành nghề điểm nhãn nhiều pho tượng từ: thần tài, thổ địa, phật bà Quan Âm…. để lượm tiền ngọt hơn bác sĩ, nên sư giàu cũng có lý do chánh đáng. Tay ngang, không biết gì nghệ thuật, mà chỉ cạo đầu, mặc áo cà sa, hay là chủ ngôi chùa nếu cư sĩ, cũng có LICENCE điểm nhãn, không do thế gian cấp nên hành nghề miễn đóng thuế, là thứ bằng hành nghề” không người lái và tự biên tự diễn” mà những người hành nghề tự hào là” làm Phật Sự”, nếu ai hổng tin, thử kiếm ông Phật mà hỏi, chứ đừng THÉC MÉT mà mang tội” khinh sư” bị hù là: khi chết xuống âm phủ, cưa hai nấu dầu, chặt đầu cho cá sấu vớt, nằm trên thớt cho ngạ quỷ phanh thây…. đó là những thứ” khủng bố tinh thần tinh vi” dưới chiêu bài” đạo pháp”, dùng Diêm Vương, ngưu đầu mả diện để hù những ai yếu bóng vía hay theo đạo mà không nắm vững lời Phật dạy, nên bị kẻ xấu lợi dụng luật luân hồi nhân quả để bắt nạt một cách sáng tạo lẫn tối tạo. Một số sư còn tự” chiếu hào quang” để gây thanh thế, như huề thượng Thích Như Huệ, người có” phép thần thông” giúp người nào muốn trốn thuế, cứ gặp thầy, được ban phép và sở thuế bị mù mắt mà không tra cứu hồ sơ. Có một số Phật tử bị lọt vào” bến mê” tín dị đoan, nên tin tưởng là:chỉ cần niệm Phật, cầu cứu Phật bà Quan Âm, là khi ra phi trường, hàng mang theo lố kí lô cũng được nhân viên phi trường cho qua luôn, mà không tín thêm tiền….như vậy thì không trách sao” cái đạo Phật ngày nay” đang đi dần đến MẠT PHÁP, thế nên nhiều kẻ tu giả được MẬP PHÁT.

Tại tiểu bang Tây Úc có cư sĩ, kiêm háng sĩ Lê Tấn Kiết, pháp danh Đại Hỷ, chủ chùa Chánh Giác và cũng là Hội Trưởng Giáo Hội Phật Giáo tại Tây Úc, là người được nhiều hội đoàn như Làng Văn Hóa, một số quân nhân, khoa bảng với bằng tiến sĩ như Bình An Sơn, Bửu Khải…các tổ chức từ lực lượng phục quốc đến mặt trận, thương gia và một số phật tử đã hết lòng” bưng bợ” một người có học rất cao, ít nhất cũng: tốt nghiệp trường cao đẳng sơ học hay đại học sơ cấp trường làng….trở thành nhân vật uy tín coi như là số một” niên trưởng tối cao của Cộng Đồng”, lãnh đạo tinh thần, bao trùm các sinh hoạt hội đoàn….nhờ cái thế” dốt chữ tự nhiên làm thầy đời” nên từ nhiều năm qua, nhân vật UẤT TRÌ CUNG thời đại LÊ Tấn Kiết đã khuynh đảo cả ban chấp hành cộng đồng Người Việt Tự Do, lợi dụng thế mạnh nhờ đồng tiền bá tánh và tượng Phật để đưa người vào nắm ban chấp hành cộng đồng, khi ông nầy ngang nhiên đem cái ” tiệm Phật Chánh Giác” chụp lên cả cộng đồng, khiến nhiều người chán ngán, vì có ai vạch trần sự kiện nầy, thường bị những kẻ” bưng bợ” chụp mũ là” đánh phá cộng đồng, tôn giáo…” chưa kến cái nón cối bị chụp lên đầu, làm cho hơn 14 ngàn dân ở đây như sống trong xã hội chủ nghĩa, dù đang ở một nước dân chủ.

Đây là sự thật ở tại tiểu bang Tây Úc, cũng có thể đã xảy ra tại một số nơi. Những hội đoàn, cá nhân….nào đã có công” biến Tây Úc thành thí điểm giống như Việt Nam sau 1975, nên coi lại mình mà sửa chửa để góp một bàn tay. Có một điều là đài phát thanh SBS Úc Châu, chương trình tiếng Việt từng đánh bóng” cư sĩ Lê Tấn kiết”, nay tại sao họ là” không trung thực” đưa tin về vụ cư sĩ Phật Giáo nầy, lợi dụng từ thiện để ép một phụ nữ phục vụ sinh lý? Nếu được, thì cũng nên làm cuộc phỏng vấn như đài từng phỏng vấn Lê Tấn Kiết về những” thành quả đóng góp cho cộng đồng” như được 320 ngàn Úc Kim từ quỷ Lotto, là” đồng tiền khôn”…

Cư sĩ Lê Tấn Kiết trở thành nhân vật” linh thiêng” do từ ngày qua định cư” tỵ nạn kinh tế hay chính trị” có đương sự mới biết, còn Phật Trời nào có miệng để vạch mặt kẻ gian. Giống như Nguyễn Công Trứ:” gần chùa gọi Phật bằng anh”, thì cư sĩ Lê Tấn Kiết ở chùa là cũng ” sắp thành Phật” cũng dám lắm! Do cái vị thế” cực kỳ đặc biệt” như một giáo chủ phật giáo địa phương, nên một số Phật tử tín nhiệm, họ ra tiệm mua tượng Phật bà, thần tài, ông địa….rồi” trịnh trọng” mang vào tiệm Phật Chánh Giác để cho ông hội trưởng, kiêm chủ tiệm Phật, dùng cây cọ nhỏ điểm nhãn, nghe tin đồn rằng: chỉ có” hai chấm đen” trong tròng trắng mắt của mổi tượng, vớt từ 20 đến 50 Úc Kim” tùy theo giàu nghèo, lòng đại bác hảo tâm”…thật là công việc làm ăn khá hơn bất cứ ngành nghề lao động chân tay và trí óc, đúng là:” tu nhất kiếp, giàu nhất thời”. Nếu tượng Phật mà không có điểm nhãn, chắc là Phật không thấy đường mà” tế độ chúng sanh, cứu khổ cứu nạn, tật bịnh tiêu trừ, tai qua nạn khỏi..”; ông địa cũng đui luôn nên hổng có khả năng giữ nhà, trộm cướp vào cũng không hay biết, cuối cùng gia chủ phải nhờ đến” thổ địa cảnh sát”; nguy hơn là ông thần tài mà không thấy đường, thì làm sao hốt tiền trên núi mà vải vô nhà….do đó việc ĐIỂM nhãn các pho tượng là nhu cầu mà nhiều Phật tử cần muốn có lợi cho gia đình. Tuy nhiên cũng nên cẩn thận, nếu đem tượng đến nhờ sư gốc công an điểm nhãn, thì coi như có ngày ông thần tài mang tiền trong nhà ra nộp với nhà nước và thổ địa chỉ chỗ cất dấu tiền, vàng mà nhà nước mò đến đánh tư sản…tức là hai ông nầy thấy đường mà bị” học tập cải tạo tốt” trở thành” mắt khóm tai bèo” là tình báo nhân dân cho công an….

Từ nghề điểm nhãn các pho tượng, cư sĩ Lê Tấn Kiết chuyển sang” ĐIỂM TRÔN” y như tên thiến heo Đổ Mười, trình độ văn hóa cũng cao như Lê Tấn Kiết, đổi sang nghề” thiến đầu người, hầu bao” và trở thành” lãnh đạo” của đám” đánh trâu, du thủ, du thực, đầu trộm đuôi cướp”. Cư sĩ Lê Tấn Kiết trở thành HÁNG Sĩ, thứ sĩ” không người lái” khi bá tánh và đồng hương” phát hiện ra” thiên tài già, gần 90 tuổi mà lại có nghệ thật” điểm trôn” thật dã man với” ngón tay vàng nhựa thuốc chất nicotin” đã điểm và chà sát và” cửa mình” của bà Nguyễn Thị Huệ, vì gặp hoàn cảnh khó khăn do không tiền, không nơi cư trú, chờ chửa trị đứa con bị phỏng nặng, nên đành phải chịu cho ông chủ tiệm Phật ” điểm trôn” nhiều lần từ tháng 8 năm 2008, cuối cùng, đứa con tàn tật phải dùng Mobile phone để quay lại cảnh” bác Một” đang cỡi quần và điểm trôn mẹ nó một cách thật man rợ, điểm trôn thật kỷ như tay chơi bời lão luyện trong với quá trình chơi bời tuư thời thực dân sang đánh Tây, đánh Mỹ, tỵ nạn với:” cuộc tình ta đi”, mới lòi ra đây là một thằng già mất nết, già dịch, đạo đức giả trong hàng ngũ Phật Giáo, đã” mượn đạo để làm bậy”. Nhưng nghe nói là nhờ biết dùng tay điểm trôn, nên giúp cư sĩ có thêm” nhân điện để làm Phật Sự” khi điểm nhãn tượng và sờ bào những hủ đựng tro người quá cố gởi tại chùa, mà có khi linh hồn người quá cố được” tiêu diêu nơi non bồng nước nhược” cũng có sơ sở lý luận” mê tín dị đoan lắm”!

Mắt là cửa sổ tâm hồn, thì Trôn là cửa mình, là nơi có nhiều” sự cố” từ xuất phát thứ nước CÔ-LÀM mà ông Một có thể ngỡ là nước CAM LỒ nên cứ điểm trôn cho suối Lenin tuông ra mới” đạt mục đích yêu cầu”, nơi nầy xuất phát ra cái đứng đầu trong NĂM TÊ:” Tình, tiền, tù, tội, tử” và nơi nầy cũng là” xưởng” sản xuất nhao tươi, thai nhi…cung cấp thức ăn, y dược cho đảng và nhà nước, là cái mà Hồ Chí Minh phải đưa cả viên đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp làm” tư lịnh trận địa ĐÁY QUẦN PHỤ NỮ”, nơi từng được đảng động viên cả nước:

” Tát nước, cấy cày tăng năng xuất.
Đặt vòng cai đẻ, giảm miệng ăn”.

Tuy nhiên cái CỬA SỔ TÂM HỒN thì nằm ngang ở trên mặt và CỬA MÌNH thì nằm dọc ở đáy quần, dù nó hổng có mắt nhưng lợi hại hơn cả mắt, thế mới có câu tục ngữ:” sướng con C…mù con mắt” nếu có ai đã từng” đi qua cái lổ Trôn..” như bài ca tụng tiểu đoàn” ba lẻ bảy” thời Việt Minh. Điểm nhãn thì phải làm bằng ngày mới tốt, còn điểm trôn phải làm ban đêm như bài ca” tiếng chày trên sóc Bam Bo” là:” giã gạo ban đêm” mới có nước nôi…nhưng điểm trôn trong chùa mới là” chất lượng” mà sư sĩ Lê Tấn kiết đã thành công, và từ nay ông đắc quả LA HÁNG, trở thành HÁNG SĨ tại thế. Điểm trôn cũng lắm công phu, nhưng cũng bị mang tội khi người khác phái không” nhất trí” mà cư sĩ cứ buộc phải cỡi quần để cho ngài” làm việc” lấy danh nghĩa” có nhân điện để làm Phật sự”. Câu chuyện có quan hệ” hữu cơ” với cái trôn ngày xưa kể rằng: có một cô gái tinh nghịch, trên đường đi, trêu ba ông sư:” tam nhân đồng hành, lục đầu gục gặc”. Ba nhà sư thuộc loại háng thâm, bèn đáp ngay:” nhất nữ độc hành, tung hoành nhị khẩu”; câu chuyện” giản đơn” thế mà ba nhà sư thưa với quan huyện về tội” dám chọc kẻ tu hành” là coi như phạm luật đạo lý, quan huyện là tay hay làm thơ, ra bài thơ và nếu ai đối được thì thắng kiện. Mở đầu, quan ra đề:

Đường môn khai.
Quân lính lưỡng biên bài.
Huyện quan cư chính vị.
Thần dân đáo hộ lai.

Một ông sư giỏi chữ hứng chí đáp ngay:

Thiền môn khai.
La Hán lưỡng biên bày.
Như Lai cư chính vị.
Thập phương đáo hộ lai.

Tới phiên cô gái, ú ớ nên thua cuộc, bị quan ra lịnh đè xuống đánh 50 roi, tuy nhiên khi mấy roi đầu bổ xuống, cô ta bị tuột quần, nhờ vậy mà có câu đối:

Quần tung bay.
Lông lá lưỡng biên bài.
” MÁ HỒNG” cư chính vị.
Quân tử đáo hộ lai.

Nghe xong quan huyện xử huề, vì biết hai bên đều là háng thâm, quần rộng cả. Câu chuyện khác, cũng có khi là có thật, xảy ra thời thực dân: có một bà nọ sống ở trong quê, mắc phải chứng bịnh đàn bà nan y, thầy thuốc bắc, nam lang băm đều chạy, nên có người chỉ ra thành, tìm đến bác sĩ Tây Y. Hôm nọ bà ra thành phố, tình cờ đi ngang qua một phòng mạch, vì không biết chữ nên chỉ nhìn bản hiệu mà suy đoán. Đứng trước tấm bản có vẽ con mắt, bà mừng thầm và vào nhờ trị bịnh; nào ngờ đây là phòng nhãn khoa, vì tấm bản sút đinh, khiến con mắt nằm dọc, bà tưởng là” cửa mình”. Sự hiểu lầm nầy cũng còn chưa” rẻ rang rân Rẹm” bằng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đỉnh cao trí tuệ từ rừng rú ra thành tiếp thu và ăn cướp, khi đi ngang qua đống rác” tàn dư chế độ Mỹ ngụy để lại” đã có sáng tạo lấy” tã bịt háng” để bịt miệng, chống vi trùng, vi dế, vi khuẩn….phòng chống dịch tể, thiền sư Thích Nhất Vẹm cũng nổi tiếng với” tã hồng cài háng”.

Cư sĩ kiêm háng sĩ Lê Tấn kiết quả là tay điểm nhãn có” trình độ cao cấp” đấy, cũng giống như thứ” GẠO CAO CẤP, NỆM NHÚNG CAO CẤP” trong phần quảng cáo đài SBS vậy, thế nên cư sĩ Lê Tấn Kiết cũng là” tu sĩ giả CAO CẤP” trong cái” đạo Phật ngày nay” có thể lừng danh như Thích Nhất Vẹm với” tã hồng cài háng” qua môn thiền Tiếp Hiện. Biết đâu sau nầy LÀNG MÔN cũng dám mời cư sĩ Lê Tấn Kiết đến thủ đô ánh sáng, tới làng môn để” thuyết pháp” về nghệ thuật điểm trôn, nằm trong Pháp MÔN LẰN để cho chúng tăng thân có thêm kinh nghiệm tu đạo lẫn đạo tu trong cái thanh tâm trường nắng cực” đạo ù ù”.

Nghệ thuật điểm nhãn trở thành dịch vụ được nhiều người chú ý kể từ khi ông Lâm Văn A, một phật tử chùa Chánh Giác trúng số 4,5 triệu Úc Kim, nên nhiều người mang tượng đến để nhờ sư sĩ điểm mà thấy đường, dẫn ông thần tài tới” cơ ngơi” mà vinh thân cả đời, khỏi phải cày nữa. Tuy nhiên, có ai ngờ là cư sĩ Lê Tấn Kiết còn có nghề ĐIỂM TRÔN thật điêu luyện, sau vụ bà Nguyễn Thị Huệ bị” điểm trôn” thật kỷ, điểm dài theo lời khai, khiến” mắt trên mặt” của nhiều Phật tử mù đã sáng ra và chắc là họ cũng không muốn mang tượng đến nhờ bác Một điểm nhãn nữa. Nhất là những phụ nữ, thì cũng đừng dại dột tới chùa Chánh Giác để nhờ bác điểm trôn dùm, trước khi đến, cũng nên đi tìm xem cuốn Vidéo thu hình cảnh cư sĩ Lê Tấn Kiết đang hành nghề, trước khi đến chùa cho chắc ăn nhé!./.

TRƯƠNG MINH HÒA .

16.4.2009

http://tinparis.net/vn_index.html


hồ chí minh súc vật, nông đức mạnh súc vật, nguyễn tấn dũng súc vật, nguyễn minh triết súc vật, dcsvn súc vật, ditmecodosaovang, ditmehochiminh, ditmenongducmanh, ditmenguyentandung, ditmenguyenminhtriet, ditmephanvankhai, dadaocongsan, latdocongsan, tieudietcongsan, hochiminhsucvat, sucvathochiminh, sucvatnongducmanh, sucvatnguyentandung, sucvatnguyenminhtriet, dadaovietcong, iavaomathochiminh, iavaomatnongducmanh, iavaomatnguyentandung, iavaomatnguyenminhtriet, súc vật lê khả phiêu, lê khả phiêu súc vật, suc vat le kha phieu, le kha phieu suc vat , le kha phieu, suc vat vo nguyen giap, sucvatvonguyengiap, vonguyengiapsucvat, súc vật võ nguyên giáp, võ nguyên giáp súc vật, ditmevonguyengiap, iavaomatvonguyengiap

April 16, 2009 Posted by | CÁN BỘ PHẬT GIÁO C.S LÊ TẤN KIẾT: TỪ" ĐIỂM NHÃN" CHUYỂN SANG "ĐIỂM TRÔN" | Leave a comment